Giáo dục pháp luật trên địa bàn huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang

Báo cáo Luật

Luận Văn Giáo dục pháp luật trên địa bàn huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang miễn phí, dành cho các bạn đang làm đề tài luận văn về giáo dục pháp luật

XEM THÊM BÁO GIÁ DỊCH VỤ VIẾT LUẬN VĂN 

https://zalo.me/0932091562

  1. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Giáo dục pháp luật (GDPL) luôn giữ vị trí quan trọng trong đời sống xã hội, là công việc không thể tách rời với quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. GDPL là khâu đầu tiên trong hoạt động thực thi pháp luật, là phương tiện để chuyển tải những đường lối, chủ trương, nghị quyết, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước tới toàn thể cán bộ và nhân dân. Đặc biệt, trong công cuộc đổi mới, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Hiện nay, công tác này càng có vai trò quan trọng về nhiều mặt. Nhận thức được điều đó, trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã xác định rõ GDPL là một bộ phận của công tác giáo dục chính trị tư tưởng, là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, phải được tiến hành thường xuyên, liên tục và lâu dài với nhiều hình thức phong phú, đa dạng và sáng tạo nhằm nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ và nhân dân, góp phần thúc đẩy kinh tế – xã hội phát triển, giữ vững ổn định tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu: “Tăng cường giáo dục pháp luật, nâng cao hiểu biết và ý thức tôn trọng pháp luật, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm cho pháp luật được thi hành một cách nghiêm minh, thống nhất và công bằng”[12, tr.395]. Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng lại tiếp tục khẳng định: “Phát huy dân chủ đi đôi với giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tăng cường pháp chế, quản lý xã hội bằng pháp luật, tuyên truyền, giáo dục toàn dân, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật”[13, tr.438]. Chỉ thị số 32-CT/TW, Ngày 09 tháng 12 năm 2003 của Ban Bí thư Trung ương về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác PBGDPL, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ và nhân dân.
  1. 7.2 Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI đã xác định: Nâng cao năng lực quản lý và điều hành của Nhà nước theo pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và kỷ luật, kỷ cương.[3, tr 89]. Trước yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng khóa IX, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cần phải tăng cường thường xuyên, liên tục và ở tầm cao hơn. Thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Đảng về hoạt động GDPL được xác định trong Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, đặc biệt là Chỉ thị số 32-CT/TW và Kết luận số 04-KL/TW. Trong giai đoạn phát triển mới của đất nước, yêu cầu tăng cường, phát huy vai trò, hiệu lực của pháp luật theo Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đòi hỏi công tác phổ biến, giáo dục pháp luật phải thực sự có chuyển biến căn bản, toàn diện. Kết luận số 04-KL/TW ngày 19 tháng 4 năm 2011 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về kết quả thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW (Kết luận số 04-KL/TW) đã chỉ rõ: “Đảng đoàn Quốc hội tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan, tổ chức hữu quan khẩn trương xây dựng, ban hành Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật và các văn bản pháp luật có liên quan, tạo cơ sở pháp lý để triển khai thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật…”. Thực tế, qua 30 năm đổi mới đất nước, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản có liên quan đến GDPL, góp phần cụ thể hóa chủ trương của Đảng cũng như xác định đúng vị trí của GDPL trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Từ thực trạng công tác GDPL những năm qua và trước yêu cầu của thời kỳ phát triển mới của đất nước, Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012 được ban hành tạo cơ sở pháp lý đồng bộ, thống nhất cho công tác GDPL, huy động toàn bộ hệ thống chính trị tham gia công tác GDPL, trong đó, Nhà
  2. 8.3 nước giữ vai trò nòng cốt; xác lập trách nhiệm và cơ chế phối hợp, huy động các nguồn lực của các cơ quan, tổ chức và xã hội nhằm tạo chuyển biến căn bản, bền vững về hiệu quả của hoạt động GDPL. Luật phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012 quy định quyền được thông tin về pháp luật và trách nhiệm tìm hiểu, học tập pháp luật của công dân; nội dung, hình thức GDPL; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền và các điều kiện bảo đảm cho công tác GDPL. GDPL với cán bộ công chức theo từng cấp chính quyền địa phương. Đối với đối tượng là công dân thì luôn gắn với cơ sở xã, phường, thị trấn. Trong 3 cấp chính quyền địa phương, cấp huyện là cấp trung gian chuyển tải chủ trương, đường lối của đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước đến với nhân dân, chính vì vậy nó có vai trò rất quan trọng, đặc biệt là ở những vùng có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn. Đối với huyện Kiên Hải, một đơn vị hành chính cấp huyện của tỉnh Kiên Giang, trong những năm qua, GDPL nhìn chung đã được cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương quan tâm; đã có những hoạt động phong phú, nội dung, hình thức cũng như phương pháp từng bước được đổi mới; thu được một số kết quả bước đầu đáng ghi nhận. Hoạt động GDPL đã góp phần từng bước nâng cao ý thức pháp luật, hình thành dần thói quen “Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật” trong cán bộ và nhân dân trên địa bàn huyện, đưa pháp luật vào các hoạt động quản lý nhà nước và đời sống xã hội. Mặc dù vậy, GDPL trên địa bàn huyện vẫn cònbộc lộ không ít khó khăn, hạn chế như sau: Thứ nhất, các cấp Ủy, Đảng, chính quyền địa phương chưa có sự quan tâm chỉ đạo sâu sát đối với công tác GDPL; Thứ hai, nhận thức của một số cán bộ về nhiệm vụ GDPL trong tình hình mới chưa thật sự đầy đủ và sâu sắc; Thứ ba, nhận thức của người dân về pháp luật cũng như ý thức chấp hành pháp luật của người dân chưa cao;
  3. 9.4 Thứ tư, nội dung GDPL chưa phong phú, chưa đạt hiệu quả cao; Các hình thức GDPL còn chậm đổi mới; Thứ năm, kinh phí và phương tiện phục vụ cho công tác GDPL còn hạn chế so với nhu cầu thực tế của địa phương; Thứ sáu, thiếu những quy định về chế tài đốivới cán bộ, công chức trong việc thực hiện công tác GDPL; Thứ bảy, chưa huy động được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong công tác GDPL tại địa phương; Thứ tám, vì cấp huyện là cấp trung gian nên ít được quan tâm, như huyện Kiên Hải là một huyện vùng xa, hải đảo còn nhiều khó khăn nên những vấn đề nêu trên cần được giải quyết. Từ những lý do trên, tôi chọn Đề tài: “Giáodục pháp luật trên địa bàn huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang” làm Luận văn thạc sĩ chuyên ngành quản lý công. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài GDPL trong giai đoạn hiện nay luôn nhận được sự quan tâm của mọi cấp, mọi ngành trong cả nước. Vấn đề GDPL qua các giai đoạn đã được nhiều nhà khoa học, nhiều tác giả tìm hiểu, nghiên cứu với nhiều góc độ khác nhau, ở nhiều địa bàn khác nhau với các hình thức như: Sách chuyên khảo, đề tài khoa học… Đáng chú ý có các công trình sau: – Sách chuyên khảo “Ý thức pháp luật” của PGS. TS. Nguyễn Minh Đoan (2011) ý thức pháp luật, NXB chính trị Quốc gia; – Luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Quốc Sửu: “Giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”; – Nguyễn Thị Thạo, các tiêu chí tiếp cận pháp luật tại cơ sở – những vướng mắc bất cập và định hướng hoàn thiện, tạp chí dân chủ và pháp luật, số chuyên đề tháng 01 năm 2015;
  4. 10.5 – Phan Chí Hiếu, vị trí vai trò, ý nghĩa của công tác giáo dục pháp luật trong nhà trường và quá trình đưa giáo dục pháp luật vào nhà trường, tạp chí dân chủ và pháp luật của Bộ Tư pháp, số chuyên đề tháng 3 năm 2015; – Lò Linh Loan, tăng cường hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, tạp chí dân chủ và pháp luật của Bộ Tư pháp, số chuyên đề tháng 5 năm 2016; Các công trình nêu trên được trình bày rất tổng quan về công tác GDPL, nhưng phần lớn các công trình này nghiên cứu về công tác GDPL trên địa bàn cấp huyện là rất ít, Đặc biệt chưa có công trình nào nghiên cứu về công tác GDPL trên địa bàn huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang. Xuất phát từ tình hình thực tế nêu trên, bản thân nhận thấy việc nghiên cứu về công tác GDPL trên địa bàn huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang là rất cần thiết. 3. Mục đích, nhiệm vụ 3.1. Mục đích Nghiên cứu một cách cơ bản những vấn đề lý luận và thực tiễn GDPL trên địa bàn huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang trong giai đoạn hiện nay. Trên cơ sở đó rút ra những kết luận, đề xuất những giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả thực hiện công tác này tại địa phương. 3.2. Nhiệm vụ – Phân tích khái niệm GDPL, cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý của công tác GDPL tại địa phương. – Đánh giá thực trạng GDPL trên địa bàn huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang. – Đề xuất một số giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện công tác này tại địa phương. 4. Đốitƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đốitƣợng:Những vấn đề lý luận và thực tiễn về GDPL. 4.2. Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu một số vấn đề về GDPL trên địa bàn đơn vị hành chính cấp huyện và thực trạng, giải pháp đối
  5. 11.6 với GDPL trên địa bàn huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang với mốc thời gian 10 năm (từ năm 2006 – 2016). 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Phƣơng pháp luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối đổi mới của Đảng về Nhà nước và pháp luật trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế. 5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu: Tác giả sử dụng phương pháp khảo cứu tài liệu và phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp. – Phương pháp khảo cứu tài liệu: đề tài tham khảo tài liệu về GDPL; các công trình, bày viết được đăng trên các báo, tạp chí, internet liên quan đến GDPL; tham khảo các văn bản về GDPL của Trung ương, của tỉnh và của huyện. Tác giả thu thập dữ liệu từ niên giám Chi cục thống kê huyện Kiên Hải, các báo cáo của Phòng Tư pháp huyện Kiên Hải. Phương pháp này giúp tác giả tiếp cận vấn đề từ gốc độ lý thuyết đến thực tiễn, kết hợp với phương pháp nghiên cứu khác để tránh được những quan điểm đánh giá phiến diện và những giải pháp đề xuất sâu sát với thực tiễn và có tính khả thi. – Phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp: phương pháp này dùng để hệ thống hóa số liệu trong các báo cáo về GDPL trong quá trình nghiên cứu; phân tích hoạt động GDPL, đồng thời tổng hợp số liệu GDPL phục vụ cho quá trình nghiên cứu. 6. Ý nghĩa lý luận thực tiễn Luận văn góp phần nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của GDPL trên địa bàn huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang, là cơ sở khoa học và thực tiễn giúp huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang nói riêng và các địa phương cấp huyện nói chung nâng cao chất lượng GDPL. Các giải pháp đề ra trong luận văn có thể được áp dụng trong thực hiện GDPL trên địa bàn huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang trong thời gian tới. Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan, ban,
  6. 12.7 ngành, tổ chức, cá nhân làm công tác thực tiễn hoặc làm công tác nghiên cứu để đề xuất những mô hình GDPL hiệu quả, đặc trưng, phù hợp với mỗi địa phương. 7. Kết cấucủa luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chƣơng 1: Cơ sở lý luận về giáo dục pháp luật trên địa bàn cấp huyện ở Việt Nam. Chƣơng 2: Thực trạng giáo dục pháp luật trên địa bàn huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang. Chƣơng 3: Quan điểm và giải pháp bảo đảm giáo dục pháp luật trên địa bàn huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang.
  7. 13.8 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TRÊN ĐỊA BÀN CẤP HUYỆN Ở VIỆT NAM 1.1. Tổng quan về giáo dục pháp luật 1.1.1. Khái niệm về giáo dục pháp luật Theo Từ điển Từ và ngữ Hán – Việt “Giáo dục là quá trình hoạt động có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có tổ chức nhằm bồi dưỡng cho con người những phẩm chất đạo đức và những tri thức cần thiết để người ta có khả năng tham gia mọi mặt của đời sống xã hội”. Từ điển từ và ngữ Việt Nam của tác giả Nguyễn Lân, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh năm 2000. Trong các tài liệu khoa học về pháp luật ở nước ta hiện nay, các tác giả đã khá thống nhất với khái niệm GDPL: “GDPL là hoạt động có định hướng, có tổ chức, có chủ định của chủ thể giáo dục tác động lên đối tượng giáo dục một cách có hệ thống và thường xuyên nhằm mục đích hình thành ở họ tri thức pháp luật, tình cảm pháp lý và hành vi phù hợp với các đòi hỏi của pháp luật hiện hành”. 1.1.2. Mục đích, nhiệm vụ, vai trò giáo dục pháp luật 1.1.2.1. Mục đích, gồm có 3 mục đích sau Mục đích thứ nhất (Mục đích nhận thức): Thông qua hoạt động GDPL giúp cho đối tượng của giáo dục được trang bị những tri thức cơ bản về pháp luật như giá trị của pháp luật, vai trò điều chỉnh của pháp luật, các chuẩn mực pháp luật trong từng lĩnh vực đời sống. Mục đích thứ hai (Mục đích cảm xúc): GDPL là nhằm hình thành tình cảm và lòng tin đối với pháp luật, để mọi người hiểu đúng pháp luật, đồng tình ủng hộ pháp luật. Có như vậy mới hình thành lòng tin, tình cảm đối với pháp luật của đông đảo nhân dân trong xã hội. Cái mà mục đích cảm xúc của GDPL hướng tới chính là giáo dục tình cảm công bằng, tình cảm trách nhiệm, tình cảm không khoan nhượng. Giáo dục tình cảm trách nhiệm, ý thức tuân thủ pháp luật ở mọi nơi, mọi lúc; phê phán, lên án những biểu hiện coi thường
  8. 14.9 pháp luật, các hành vi vi phạm pháp luật; đồng thời ủng hộ và tích cực tham gia bảo vệ sự nghiêm minh của pháp luật. Mục đích thứ ba (Mục đích hành vi): Là phải được thể hiện ở hành vi xử sự phù hợp pháp luật của các công dân. Tuân thủ các quy phạm pháp luật, thực hiện đúng và đầy đủ quyền và nghĩa vụ pháp lý của công dân, biết đấu tranh với các hành vi vi phạm pháp luật; biết vận dụng pháp luật để bảo vệ lợi ích hợp pháp của cá nhân khi bị xâm phạm. 1.1.2.2. Nhiệm vụ của giáo dục pháp luật Giáo dục ý thức chấp hành pháp luật trong cán bộ và nhân dân, huy động mọi nguồn lực tham gia tích cực vào phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật; phê phán các hành vi tiêu cực xã hội, góp phần khuyến khích sự tham gia tích cực của công dân vào đời sống pháp luật. Không chỉ tự mình tuân thủ, không vi phạm pháp luật mà còn tích cực chủ động tham gia vào các hoạt động phòng, chống tội phạm củng như các hành vi vi phạm pháp luật khác. 1.1.2.3. Vai trò của giáo dục pháp luật GDPL nhằm đảm bảo cho các hoạt động quản lý của Nhà nước trên mọi mặt của đời sống xã hội; bảo vệ trật tự và ổn định xã hội, thiết lập công bằng xã hội, là phương tiện để định hướng cho các hành vi xử sự hợp quy luật của con người; GDPL là khâu đầu tiên trong quá trình triển khai thực hiện pháp luật, hình thành ý thức pháp luật; góp phần giúp mỗi người nhận ra tính công bằng của pháp luật, góp phần nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước, quản lý xã hội nhằm nâng cao ý thức chấp hành pháp luật. 1.1.3. Chủ thể, đối tƣợng giáo dục pháp luật 1.1.3.1. Chủ thể của giáo dục pháp luật Ý thức pháp luật của các đối tượng trong xã hội được hình thành thông qua ảnh hưởng của hoàn cảnh khách quan và sự tác động trực tiếp của GDPL. Sự tác động này được thực hiện nhờ các chủ thể của GDPL.
  9. 15.10 Như đã nêu trên, GDPL là hoạt động định hướng có tổ chức, có chủ định của chủ thể giáo dục tác động lên đối tượng giáo dục. Vì vậy, tất cả những người theo chức năng, nhiệm vụ hay trách nhiệm xã hội đã góp phần tham gia vào việc thực hiện mục tiêu GDPL đều được hiểu là chủ thể GDPL. Chủ thể GDPL là người thực hiện việc GDPL cho các đối tượng. Theo quan điểm chung hiện nay, GDPL là nhiệm vụ chung của các cơ quan, tổ chức và các cá nhân được phân công mà theo cách hiểu truyền thống thường bao gồm: Những người công tác tại các cơ quan pháp luật; cán bộ tuyên huấn của các cơ quan, đơn vị; báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật; giáo viên giảng dạy môn pháp luật trong các trường học… Đây là những người trực tiếp truyền tải những thông tin pháp luật, nội dung, GDPL đến các đối tượng. Tùy theo nhiệm vụ và nội dung công việc, chủ thể GDPL có thể phân chia thành các nhóm: – Nhóm chủ thể chịu trách nhiệm lãnh đạo (Chủ thể tổ chức, quản lý GDPL): Các tổ chức Đảng, Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật tại các cơ quan, đơn vị. – Nhóm các chủ thể gián tiếp thực hiện giáo dục pháp luật: Những người làm các chương trình truyền hình, chương trình phát thanh, chương trình GDPL trong các nhà trường. – Nhóm các chủ thể trực tiếp thực hiện giáo dục pháp luật: Các báo cáo viên pháp luật, giảng viên pháp luật, giáo viên pháp luật, các nhà tư vấn pháp luật, những người áp dụng pháp luật… Căn cứ vào mức độ liên quan giữa chức năng, nhiệm vụ hay trách nhiệm pháp lý của các chủ thể và mục đíchcủa GDPL mà chủ thể GDPL cũng có thể được phân chia thành hai loại: – Chủ thể chuyên nghiệp: Là những người có chức năng, nhiệm vụ hay trách nhiệm pháp lý chủ yếu, trực tiếp, thường xuyên thực hiện các mục tiêu GDPL bao gồm các báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật ở hệ thống các cơ quan Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội các cấp; các phóng viên,
  10. 16.11 biên tập viên, phát thanh viên của cơ qua

 

  • PHÍ TÀI LIỆU: 0
  • ĐỊNH DẠNG: WORD+PDF
  • THANH TOÁN QUA MOMO, CHUYỂN KHOẢN, THẺ CÀO ĐIỆN THOẠI (X2)
  • NỘI DUNG: MÃ TÀI LIỆU – EMAIL NHẬN
  • CHECK EMAIL (1-15 PHÚT)

  • Đăng nhập MOMO
  • Quét mã QR
  • Nhập số tiền
  • Nội dung: Mã Tài liệu – Email 
  • Check mail (1-15p)

  • Mua thẻ cào chỉ Viettel,  Vinaphone
  • Mệnh giá gấp 2 phí tài liệu (vì phí nhà mạng 50%) 
  • Add Zalo 0932091562
  • Nhận file qua zalo, email

  • Đăng nhập Internet Mobile
  • Chuyển tiền
  • Nhập số tiền
  • Nội dung: Mã Tài liệu – Email
  • Check mail (1-15p)

NẾU CHỜ QUÁ 15 PHÚT CHƯA THẤY MAIL VUI LÒNG NHẮN ZALO: 0932091562

 

Trên đây là bài mẫu Luận văn thạc sĩ Quản lý giáo dục  với đề luận văn là Giải pháp quản lý hoạt động đào tạo đại học ở trường đại học để tải tài liệu này, các bạn thực hiện thao tác theo hướng dẫn ở trên. Trường hợp bạn không biết cách thực hiện thì các bạn nhắn tin qua Zalo 0932091562

admin

Dịch vụ nhận viết Luận văn thạc sĩ, Báo cáo, Khóa luận, Chuyên đề, Tiểu luận, Đồ án. Liên hệ ZALO 0932091562 Để được hỗ trợ khi bạn cần làm bài.

https://tailieumau.vn/dich-vu-viet-thue-luan-van-thac-si/